ĐỜI THỨ SÁU PHÁI NHẤT, CHI NHẤT, HỆ 3

103 - ĐỜI THỨ SÁU
PHÁI NHẤT, CHI NHẤT, HỆ 3
Ông PHAN HOÀI TRÂN, úy MIỆN, tục goi ông Cửu Ba, hay Cửu Thanh, sinh năm Quý Mão, 1903; mất 05/12 Canh Tuất, 1970. Chánh thất: Trương Thị Trà, tục gọi Thanh, hay Cửu Ba, sinh năm Bính Ngọ, 1096; tạ thế 06/4 Bính Dần, 1986; thứ thất: Nguyễn Thị Nhị, sinh năm Bính Thìn, 1916; tạ thế (chưa rõ); thứ thiếp: Trần Thị Thính, sinh năm Kỷ Tỵ, 1929; tạ thế (chưa rõ).
Sanh hạ với chánh thất:
1- Bà PHAN THỊ THANH, tục gọi Mai, sinh năm Bính Dần, 1926. Chồng: Đỗ Gia Toại Hoàn ở Ái Nghĩa, Đại Lộc.
2- Ông PHAN HOÀI TÂN, sinh năm Mậu Thìn, 1928; mất năm Đinh Hợi, 1947.
3- Bà PHAN THỊ TẤN, sinh năm Tân Mùi, 1931; mất năm Nhâm Thân, 1932.
4- Bà PHAN THỊ TẨN, tục gọi Hạo, sinh năm Nhâm Thân, 1932. Chồng: ông Nguyễn Cầu, tục gọi Hạo, người làng Hòa Mỹ, xã Đại Nghĩa.
5- Bà PHAN THỊ DẪN, sinh năm Giáp Tuất, 1934; mất ngày 08/7 Tân Mão, 1951.
6- Ông PHAN HOÀI VÂN, túc Mân, sinh năm Đinh Sửu, 1937; mất 25/6 Đinh Hợi, 1947.
7- Ông PHAN HOÀI CHẤN, sinh năm Canh Thìn, 1940; mất 24/6 Đinh Hợi, 1947.
8- Ông PHAN HOÀI ĐỨC, sinh năm Bính Tuất, 1946; mất 16/6 Đinh Hợi, 1947.
Sanh hạ với thứ thất:
9- Bà PHAN THỊ BÌNH, sinh năm Giáp Thân, 1944; mất 1944.
10- Bà PHAN THỊ ĐỊNH, sinh năm Giáp Thân, 1944.
Sanh hạ với thứ thiếp:
11- Bà PHAN THỊ HOÀI BÍCH, sinh năm Bính Thân, 1956.
12- Bà PHAN THỊ HOÀI LƯU, sinh năm Kỷ Hợi, 1959; mất 7/9/1959.
13- Bà PHAN THỊ MƯỜI, úy Hoài Tương, sinh năm Canh Tý, 1960. Chồng: Võ Sĩ ở Đại Phú, Đại Nghĩa.
14- Ông PHAN HOÀI NGỌC, tục danh Nghĩa, sinh năm Quý Mẹo, 1963. Vợ: Nguyễn Thị Mười.
15- Bà PHAN THỊ HOÀI HUỆ, sinh năm Bính Ngọ, 1966. Chồng: Đoàn Văn Luật ở Phiếm Ái.
16- Ông PHAN HOÀI CẨN, sinh năm Đinh Mùi, 1967.
17- Ông PHAN HOÀI THẬN, sinh năm Mậu Thân, 1968.
18- Bà PHAN THỊ HOÀI DIỄM PHƯƠNG, tục Thu, sinh năm Canh Tuất, 1970.
Tiểu sử ông PHAN HOÀI TRÂN: Ông người ăn ở hiền hòa, học ít thông nhiều, chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp đều thông. Thời Pháp thuộc, ông làm địa chánh từ Quảng Nam đến Bình Định, ở các xã, huyện ghi chép bộ điền thổ. Từ khi kháng chiến chống Pháp, ông mở trường dạy học, học trò đến học rất đông, có người thành đạt trong thôn xã. Sau 1954, ông làm địa chánh Quảng Nam, rồi đổi ra Đà Nẵng thuộc chính quyền Sài Gòn.
     Mặc dầu nhiều vợ, đông con, ông vẫn giữ được phẩm chất của người sống một cuộc sống trong sạch; không ưa thích nịnh bợ, cúi lòn; ông cũng không kiêu kiêu tự đắc.
     Ông là người mẫu cho con cháu sau này.
     Ghi chú thêm: Ông có 3 người vợ:
       - Người thứ nhất: Trương Thị Trà, con của ông Cửu Quỳ ở xã Giáo Ái, Điện Bàn.
      - Người thứ hai: Nguyễn Thị Nhị, người làng An Thạnh, tổng Dưỡng An, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, con gái ông Phụng Bảy.
       - Người thứ ba: Trần Thị Thính, con ông Thủ Bản, người cùng làng Mỹ Thuận.


Mọi đóng góp, bổ sung thông tin, xin liên hệ Email sau: tocphanmythuan@gmail.com