201 - ĐỜI THỨ SÁU – PHÁI NHẤT – CHI HAI - HỆ 1
Ông
PHAN ĐÌNH DƯƠNG, úy CẠNH, sinh năm Canh Dần, 1890; mất 25/6 Canh Tuất. Vợ: Võ
Thị Ngưu, tục gọi Cửu Phầu, sinh năm Nhâm Thìn, 1892; mất 24/6 Bính Thân, 1956.
Sanh
hạ:
-
Bà PHAN THỊ PHẦU, tục gọi chị Hai, hay chị Khuê, sinh năm Nhâm Tý, 1912. Chồng:
ông Trương Hưng (con ông Trương Khuê).
-
Bà PHAN THỊ BIỀU, tục gọi bà Giáo, sinh năm Ất Mão, 1915. Chồng: Bùi Đình Quế
(con ông Cửu Khóa, ở Phú Thuận, Bình Đông).
-
Bà PHAN THỊ GIÁM, sinh năm Đinh Tỵ, 1917; mất: 20/8 Bính Dần, 1926.
-
Ông PHAN ĐÌNH CHƯỚC, úy HÒE, sinh năm Kỷ Mùi, 1919; mất: 14/8 Bính Dần, 1926.
-
Ông PHAN ĐÌNH HUYẾN, úy CỰ, tục gọi Tú Huyến hay Nghè Huyến, sinh năm Tân Dậu,
1921; mất… Vợ: bà Công Tằng Tôn Nữ Thị Tố Nga, úy Na (con gái ông Bửu Thảo,
thượng thơ phủ Tôn Nhơn, Huế).
-
Bà PHAN THỊ KHẢNG, sinh năm Quý Hợi, 1923; mất: 20/9 Đinh Hợi. Bà có 2 đời
chồng: chồng trướclà ông Phạm Cống (con ông Chánh Tá), chồng sau là ông Trần
Hiệp (con ông Thủ Dõng).
-
Ông PHAN ĐÌNH HUẤN, úy Ngô, tục gọi Tám Thôi, sinh năm Bính Dần, 1926; mất… Vợ:
Nguyễn Thị Tuân, sinh năm Đinh Mão, 1927; mất: 10/02 Canh Tuất, 1970 (bà là con
gái ông Trợ thôn Trường An, xã Đại Quang).
-
Ông PHAN ĐÌNH KHÁNH, úy ĐỒNG, tục gọi Chín Khánh, sinh năm Mậu Thìn, 1928;
mất:… Vợ: Nguyễn Thị Bảy, úy Tếp, sinh năm Tân Mùi, 1931; mất:…(bà là con gái
ông Xã Phấn (ông Nguyễn Liệu) ở Bình Cư, Đại Quang). Hiện ông bà ở Phú Ngọc,
Tân Phú, Đồng Nai.
-
Bà PHAN THỊ MƯỜI, úy THÁI, sinh năm Canh Ngọ, 1930. Chồng: Nguyễn Văn Duẫn (con
ông Cửu Thước Phú Bình Đông, Phú Thuận, Đại Thắng).
-
Bà PHAN THỊ CHỈ, úy NGỌC, sinh năm Quý Dậu, 1933. Chồng: Huỳnh Rứa. Hiện mẹ con
bà ở Phú Ngọc, Tân Phú, Đồng Nai.
-
Bà PHAN THỊ MỸ, sinh năm Ất Hợi, 1935. Chồng: ông Trương Bách Nghĩ (con ông Xã
Chức ở Phiếm Ái, Đại Nghĩa, Đại Lộc). Hiện ở Phú Ngọc, Tân Phú, Đồng Nai.
Tiểu sử ông PHAN ĐÌNH DƯƠNG; Ông sinh năm
Canh Dần, 1890, Thành Thái thứ 2, thọ 81 tuổi.. Ông thông minh, học giỏi, thạo
chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, nhất là chữ Hán. Thi hương mấy khóa vào trường ba không
đạt. Bản chất ông ôn hòa, khiêm tốn, cư xử khéo, nhiều người mến. Ông làm thi,
phú, liễn đối, lời văn tao nhã; biết làm thuốc theo thang Hải Thượng Lãng Ông.
Ông đóng góp nhiều ý kiến hay đối với làng nước đương thời, bảo vệ đất đai bồi
lỡ. Ông được thưởng Phó Tổng Dụng, sau được thưởng hàm cửu phẩm văn giai.