TỰ
THUẬT
Theo lời khẩu truyền của thân phụ tôi lúc sanh tiền, ông Tổ chín đời
họ chúng ta nguyên là người quán tại Châu Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa về thế kỷ
17 nguyên mộ theo ông Đoan Quốc Công (Nguyễn Hoàng, tức Chúa Tiên nhà Nguyễn)
vào trấn giữ đất Ô Châu (Thuận Hóa). Vì trường hợp khai khẩn đất hoang lập
doanh điền, ông mới xin vào Quảng Nam, phủ Thăng Hoa mở mang ruộng đất cùng với
người đồng thời lập ra làng Phiếm Ái, khai cơ lập nghiệp tại đó. Đương thời
cũng là một hào phú trong làng ấy. Hiện còn di tích các vị mã vôi làm căn cứ.
Gia phả của nhà họ Phan do sự binh hỏa ở
triều Hậu Lê thiêu hủy hết, nên từ ông Tổ thứ nhất đến đời thứ ba không được
rõ.
Đời thứ tư họ Phan ta ở Phiếm Ái còn lại
hai anh em: ông PHAN VĂN HUYÊN và ông PHAN VĂN NHIỄM.
Niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông
nhà Hậu Lê, ông Cao Cao Tổ 6 đời của chúng ta là ông PHAN VĂN HUYÊN theo quê vợ
qua ngụ tại làng Mỹ Thuận, tạo mãi ruộng vườn kiết cư lập nghiệp tại đó.
Ô. Phan Văn Huyên sinh hạ được ba người
con là: ông Phan Văn Dụng, bà Phan Thị Minh và ông Phan Văn Lại.
Ô. Phan Văn Dụng sinh hạ được bốn người
con là: ông Phan Văn Lý, bà Phan Thị Điều, bà Phan Thị Kiên và bà Phan Thị
Soạn.
Ô. Phan Văn Lại sinh hạ được hai người con
là: ông Phan Văn Sự và ông Phan Văn Trực.
Triều Gia Long, ông Phan Văn Sự làm lý
trưởng làng Mỹ Thuận cùng với cha là ông Phan Văn Lại tức Hương Lão Sư đứng kê
khai ruộng đất lập ra châu bộ năm Gia Long thứ 13.
Đất ruộng đời ông Phan Văn Huyên lưu hạ
tại bộ Mỹ Thuận và Bình Yên, Phước Lộc phần nhiều về cha con ông Phan Văn Lại,
Phan Văn Sự và bà Phan Thị Minh đứng, bộ còn lại ông Phan Văn Lý chỉ đứng một
ít thôi, vì còn chừa Tổ Nghiệp đứng bộ tại làng Phiếm Ái.
Ô. Phan Văn Lý sinh năm Kỷ Dậu, 1789 vào
triều Quang Trung, nhà Tây Sơn. Ông phối hợp với bà Lê Thị Quận con gái ông Lê
Viết Mạo ở làng Phú Lộc, sinh hạ được hai con trai và ba gái: Gái: bà Phan Thị
Thơ, bà Phan Thị Bé và bà Phan Thị Huờn; hai trai: ông Phan Văn Phiêu và ông
nội chúng ta là ông Phan Văn Long.
Từ đây
trở xuống, Bản Tông Chi vẽ rõ ra sau:
Ta thiết tưởng, tục đời thường nói “Cây có
cội, nước có nguồn”, ý nói: làm người phải biết rõ Tổ Tông của mình sinh ra từ
đâu để tôn trọng họ hang và bà con trong họ phải cư xử đúng mực, cùng nhau chia
sẻ ngọt bùi, đùm bọc cho nhau khi hoạn nạn, lúc thiên tai.
Họ chúng ta, gia phả bị thiêu hủy trong
thời binh hỏa, lúc ở Phiếm Ái truy lục không ra nên ông Tổ đời thứ 3 trở về
trước không được rõ, chỉ biết ngang từ lúc lên Mỹ Thuận đến nay mà thôi.
Thưở
ta còn nhỏ, thân phụ ta có chép một bản chữ Hán nói rất sơ lược chưa được đầy
đủ, may nhờ Bá Thúc Phụ ta khẩu truyền lại ta như lời ta đã tường thuật, theo
đây ta truy tầm đầy đủ, sắp đặt có thứ tự một bản để ngày sau con cháu được
biết mà ghi chép lại và kế tiếp cho quyển gia phả nhà họ Phan ta ngày càng súc
tích, đầy đủ.
Mỹ Thuận, ngày 10 tháng 10 Quý Mão (1963)
Cháu 6 đời của ông Phan Văn Huyên:
Phan Hoài Trân (phụng thuật)
*Mỹ Thuận, ngày 28/3/1989 tức
23/01 Kỷ Tỵ
Phan Đình Huấn, đời thứ 7, gọi
ông Phan Hoài Trân bằng bác thúc bá (phụng sao)
*Thanh Khê, ngày 20/01/1993 nhằm ngày
28/12 Nhâm Thân
Phan Đình Tiến, đời thứ 7,
gọi ông Phan Đình Huấn anh thúc bá (phụng sao)
*phường Phước Mỹ, quận Sơn
Trà, Đà Nẵng ngày 22/02/2007 nhằm ngày 6, tháng Giêng, năm Đinh Hợi
Phan Hoài Trung, đời thứ 8,
gọi ông Phan Đình Tiến bằng chú thúc bá (phụng sao)